CHƯƠNG 4: CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ
CHƯƠNG 4: CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ
Hiện
nay, có nhiều phương pháp đánh giá hiệu quả làm việc của nhân viên, bên dưới là
những phương pháp đánh giá thành quả nhân viên đang được áp dụng phổ biến:
1. Phương pháp bảng điểm.
2. Phương pháp xếp hạng luân
phiên.
3. Phương pháp so sánh từng
cặp.
4. Phương pháp phê bình lưu giữ.
5.
Phương pháp quan sát hành vi.
7.
Phương pháp quản trị bằng mục tiêu (MBO).
8.
Phương pháp đánh giá thực hiện công việc bằng định lượng.
9. Phương pháp đánh giá
theo chỉ số đánh giá thực hiện công việc (key performance indicator-KPI).
10.
Phương pháp đánh giá 360 độ (3600
feedback).
Có rất nhiều phương pháp đánh giá nhưng về bản chất có
thể chia thành 3 nhóm chính.
Đánh giá phẩm chất cá nhân |
Đánh giá hành vi |
Đánh giá theo kết quả cuối cùng |
Ưu điểm |
||
Rẻ khi xây dựng. |
Sử dụng các yếu tố thực hiện cụ thể. |
Rõ ràng về tiêu chuẩn đánh giá. |
Dễ sử dụng. |
Dễ chấp nhận cho người lao động và những người thực hiện
tuyệt hảo. |
Loại trừ bớt yếu tố chủ quan và thiên vị. |
Có các thông tin cụ thể về các phẩm chất của nhân viên. |
|
Tạo ra sự linh hoạt. |
|
Rất hữu ích cho việc cung cấp các thông tin phản hồi. |
Dễ chấp nhận cho người lao động và những người thực hiện
tuyệt hảo. |
|
Là công bằng cho các quyết định khen thưởng và đề bạt. |
Gắn việc thực hiện nhiệm vụ của các nhân với mục tiêu của
tổ chức. |
|
|
Rất tốt cho các quyết định khen thưởng và đề bạt. |
Nhược điểm |
||
Không rõ ràng, rất dễ có sai lệch khi đánh giá. |
Có thể rất tốn kém về thời gian để xây dựng và thực hiện. |
Rất tốn thời gian để xây dựng và thực hiện. |
Dễ thiên vị. |
Có thể rất tốn kém để phát triển. |
Chạy theo kết quả bằng mọi giá và có thể gây mất cân bằng. |
Khó xác định phẩm chất nào là tốt nhất cho công việc. |
Có những tiềm năng của sai lệch khi cho điểm. |
Không khuyến khích sự hợp tác. |
Hướng vào các nhân hơn là bản chất kết quả công việc. |
|
Có thể sử dụng các tiêu chí không tính đến các điều kiện
thực hiện nhiệm vụ. |
Không hữu ích cho tư vấn với người lao động. |
|
|
Không hữu ích cho việc trao phần thưởng. |
|
|
Không hữu ích cho việc đề bạt. |
|
|
Về cách thực hiện so sánh để đánh giá cũng có 2 phương
pháp:
So
sánh tương đối |
So
sánh tuyệt đối |
Ưu điểm |
|
Buộc người đánh giá phải tìm ra sự
khác biệt về kết quả giữa các nhân viên thông qua việc xếp hạng họ. |
Có thể so sánh các cá nhân giữa
các nhóm. |
Thông tin phải hồi cụ thể và hữu
ích. |
|
Tránh các mẫu thuẩn trực tiếp giữa
các nhân viên. |
|
Nhược điểm |
|
Không rõ khoảng cách khác biệt. |
Xu
hướng bình quân hóa. |
Không cung cấp các thông tin tuyệt
đối về ưu nhược điểm của nhân viên. |
Khó xác định các mức chuẩn. |
Đây là phương pháp đơn giản nhất để đánh giá tình hình
thưc hiện công việc của nhân viên. Để thực hiện việc đánh giá người ta lập bảng
liệt kê những yêu cầu chủ yếu đối với nhân viên khi thực hiện công việc như: số
lượng, chất lượng công việc, tác phong, tính sáng tạo, ý thức trách nhiệm,…
Mỗi nhân viên sẽ được đánh giá theo yêu cầu, sau đó tổng
hợp lại và có kết quả chung về tính hình thực hiện công việc của nhân viên đó.
Các
yếu tố |
Điểm
đánh giá |
Giải
thích |
1. Khối lượng công việc hoàn thành |
o
Tốt |
|
|
o
Khá |
|
|
o
Trung Bình |
|
|
o
Yếu |
|
|
o
Kém |
|
2. Chất lượng công việc |
o
Tốt |
|
|
o
Khá |
|
|
o
Trung Bình |
|
|
o
Yếu |
|
|
o
Kém |
|
3. Tính sáng tạo |
o
Tốt |
|
|
o
Khá |
|
|
o
Trung Bình |
|
|
o
Yếu |
|
|
o
Kém |
|
4. Tổng hợp |
o
Tốt |
|
|
o
Khá |
|
|
o
Trung Bình |
|
|
o
Yếu |
|
|
o
Kém |
|
Mặc dù phương pháp đánh giá này là đánh
giá tuyệt đối song mức độ khi đánh giá lại mang tính ước chừng, bởi các mức độ
hay tiêu chí đôi khi không được lượng hóa đầy đủ và rõ ràng. Phương pháp đánh
giá này có thể được thực hiện cụ thể hơn bằng phương pháp cho điểm của từng yếu
tố rồi tổng hợp lại.
Khó khăn nhất khi áp dụng phương pháp này là
cần phải xác định một cách cụ thể các yêu cầu của các tiêu chí. Dựa vào các yêu
cầu đó người đánh giá có thể cho điểm một cách tương đối chính xác các tiêu chí
đánh giá.
4.2 PHƯƠNG PHÁP XẾP HẠNG LUÂN PHIÊN
Theo Nguyễn Hữu Thân (2008), phương pháp xếp hạng luân phiên là phương
pháp đánh giá được thực hiện bằng cách đưa ra một số khía cạnh chính và liệt kê
danh sách những người cần được đánh giá, sau đó lần lượt sắp xếp lại theo thứ tự
từ người giỏi nhất đến người kém nhất (hoặc ngược lại) theo từng khía cạnh. Cuối
cùng, tổng hợp lại để biết ai là người xuất sắc hơn. Có thể sử dụng nhiều người
để tham giá đánh giá.
Số
TT |
Ban
Giám khảo |
Các
nhân viên cần đánh giá |
||||||
|
|
A |
B |
C |
D |
E |
F |
G |
1 |
Khám khảo 1 |
7 |
5 |
2 |
3 |
1 |
1 |
5 |
|
Giám khảo 2 |
4 |
5 |
1 |
3 |
2 |
3 |
6 |
|
Giám khảo 3 |
5 |
1 |
3 |
1 |
3 |
3 |
7 |
2 |
Cộng |
16 |
11 |
6 |
7 |
6 |
7 |
18 |
|
|
|||||||
3 |
Xếp hạng chung cuộc |
7 |
1 |
6 |
7 |
8 |
4 |
Phương pháp đánh giá này khá đơn giản, do
đây là phương pháp đánh giá tương đối nên ít chính xác, mức độ đánh giá mang
tính ước chừng.
4.3 PHƯƠNG PHÁP SO SÁNH TỪNG CẶP
Theo Nguyễn Vân Điềm và
Nguyễn Ngọc Quân (2004), Phương pháp đánh giá từng cặp là phương pháp đánh giá
mà người đánh giá phải so sánh từng nhân viên được đánh giá với tất cả những
người khác trong bộ phận theo từng cặp. Khi đánh giá, người đánh giá phải cân
nhắc hai cá nhân một lúc và quyết định xem ai là người làm việc tốt hơn. Vị trí
của từng nhân viên trong bảng xếp hạng (hay là số điểm đánh giá) được quyết định
bởi số lần nhân viên đó được chọn là tốt hơn. Vị trí của từng nhân viên trong bảng
xếp hạng (hay số điểm đánh giá) được quyết định bởi số lần nhân viên đó được chọn
là tốt hơn so với những nhân viên khác.
Có nhiều cách để so sánh
các nhân viên theo cặp. Để đơn giản, tốn ít thời gian và công việc giấy tờ là
viết tên và số hiệu của từng nhân viên từ trên xuống dưới ở phía bên trái của một
biểu đồ chung.
-
Nếu ngang nhau thì cho điểm
1
-
Nếu hơn được điểm 2
-
Nếu kém hơn thì nhận điểm
0
Những người nào được điểm nhiều nhất
sẽ được coi là hiệu quả nhất. Phương pháp so sánh từng cặp được coi là có giá
trị hơn các phương pháp ở trên. Nhưng rất khó thực hiện khi có từ 10-15 nhân
viên cần so sánh, vì lúc đó số cặp so sánh quá nhiều làm cho việc so sánh trở
nên khó khăn. Ngoài ra, phương pháp này chỉ cho phép so sánh những nhân viên
thuộc cùng nhóm công việc. Việc sắp xếp cũng rất nhạy cảm với các sai lầm trong
đánh giá, chủ yếu là do chỉ tiêu về hiệu quả công việc ít khi được xác định rõ
ràng. Đôi khi, chúng ta buộc phải phân biệt những nhân viên mà hiệu quả công việc
của họ lại khá giống nhau.
Ví dụ:
So sánh
từng cặp về chất lượng hoàn thành công việc của các nhân viên A, B, C, D
|
A |
B |
C |
D |
Tổng cộng |
Xếp
hạng cuối cùng |
A |
|
1 |
0 |
2 |
3 |
3 |
B |
1 |
|
0 |
1 |
2 |
2 |
C |
2 |
2 |
|
2 |
6 |
4 |
D |
0 |
1 |
0 |
|
1 |
1 |
Theo kết
quả so sánh trong bảng, các nhân viên sẽ được đánh giá theo thứ tự tăng dần từ D→B→A→C.
Nhân viên C được đánh giá tốt nhất, nhân viên D bị đánh giá kém nhất.
4.4 PHƯƠNG PHÁP QUAN SÁT HÀNH VI
Khái niệm:
Theo Trần Kim
Dung (2003), phương pháp quan sát hành vi là phương pháp đánh giá được thực hiện
trên cơ sở quan sát hành vi thực hiện công việc của nhân viên.
Ví dụ:
Những hành vi cần quan
sát đối với nhân viên đầu bếp trong khách sạn tầm trung gồm có:
-
Không để khách hàng phàn nàn về chất lượng
món ăn.
-
Trình bày món ăn đẹp và tạo mùi thơm ngon.
-
Không lãng phí thực phẩm.
-
Chuẩn bị cho bữa ăn sau.
-
Vệ sinh bồn chậu sạch sẽ, không thò tay
vào món ăn.
Người
đánh giá sẽ sử dụng tờ kiểm tra hành vi và cho điểm kiểm tra mọi hành động của
nhân viên mà anh ta quan sát được. Tờ kiểm tra hành vi có thể bao gồm cả các
hành vi tốt và xấu. Hành vi tốt được cho điểm tốt, hành vi xấu được cho điểm xấu.
Điểm đánh giá hiệu quả của một nhân viên sẽ bằng tổng số điểm của các hành vi
đã được kiểm tra.
Khi
sử dụng phương pháp đánh giá này cần lưu ý những ưu và nhược điểm sau:
Ưu điểm:
-
Thấy rõ được các hành vi của nhân viên.
-
Giảm được những sai lầm có liên quan đến
việc đánh giá của người cho điểm (nhưng không giảm được sai lầm do quan sát).
Nhược điểm:
-
Xây dựng thang điểm này thường tốn kém cả
về thời gian lẫn tiền bạc.
-
Đôi khi công việc ghi chép bị bỏ qua.
-
Người lao động không thỏa mái khi biết rằng
người lãnh đạo ghi chép lại những hành vi yếu kém của mình.
4.5 PHƯƠNG PHÁP PHÊ BÌNH LƯU GIỮ
là phương pháp đánh giá bằng cách ghi lại những sai lầm, trục trặc lớn hay những kết quả
rất tốt trong việc thực hiện công việc của nhân viên bởi người quản lý. Những
kết quả bình thường sẽ không ghi lại. Do đó, những nhân viên thực hiện công
việc rất tốt hoặc rất yếu sẽ được đánh giá riêng. Đối với những nhân viên đã
có những sai sót lớn, lãnh đạo sẽ lưu ý kiểm tra lại xem nhân viên đã khắc
phục được chưa. Phương pháp phê bình lưu giữ sẽ nhắc nhở các lãnh đạo nhớ
về những điểm yếu, những sai sót của cấp dưới và có biện pháp giúp đỡ họ
làm việc tốt hơn, tránh bớt sai lầm trong thực hiện công việc.
4.6 PHƯƠNG PHÁP QUẢN TRỊ BẰNG MỤC
TIÊU
Quản lý theo mục
tiêu một quá trình xác định và thiết lập các mục tiêu trong nội bộ tổ chức, trong
đó nhà quản lý và nhân
viên cùng thống nhất mục tiêu và
hiểu được làm thế nào để đạt được đích đó. Đây là mô hình thích hợp cho phân đoạn
quản lý cấp cao và thích hợp với các công việc khó kiểm soát được quá trình thực
hiện.
Phương thức quản trị này được rất nhiều tập đoàn
lớn sử dụng như Google, Apple, Metro Cash & Carry...
Bản chất quản trị theo mục
tiêu là gần như đối lập với quản trị theo quy trình (Management By
Process – MBP)
*** Quản lý theo quy trình là quản lý công việc theo một chu
trình đã được phân tích và quy định kỹ lưỡng. Một khía cạnh nào đó đây chính là
nền tảng của các hệ thống quản lý chất
lượng ISO. Bên dưới là bảng so sánh sự khác biệt giữa quản trị theo mục
tiêu và quản trị theo quy trình.
Phương pháp đánh giá mục tiêu:
Phương pháp đánh giá quản trị mục
tiêu là phương pháp hướng kết quả vì theo phương pháp này thành tích công việc
của nhân viên được xác định dựa trên mức độ đạt được của nhân viên đó so với mục
tiêu công việc đã được xác định từ trước. Thông thường, các mục tiêu này được cấp
quản lý và chính nhân viên cùng xây dựng (ví dụ: mục tiêu của người phụ trách
bán hàng có thể là tăng doanh thu trong 6 tháng cuối năm thêm 300 triệu chẳng hạn).
Quá trình xây dựng mục tiêu là quá trình mà nhân viên tự xác định những kỹ năng
cần thiết để đạt được các mục tiêu đã đặt ra. Họ không cần người khác phải phân
tích các điểm mạnh, điểm yếu của mình để giao nhiệm vụ và phân bổ các nguồn lực
(bao gồm cả quyền hạn và trách nhiệm) để có thể hoàn thành công việc. Chính bản
thân nhân viên đòi hỏi phải tự giám sát quá trình phát triển của bản thân mình.
Phương pháp đánh giá này tạo ra một sự cởi mở trong đánh giá, nó
hướng đến sự tự giác nhiều hơn cho nhân viên.
Trình tự thực hiện có thể như sau:
1.
Nhân viên gặp gỡ riêng với cấp quản lý của
mình để cùng thảo luận và đưa ra các mục tiêu lớn nhỏ. Các mục tiêu phải được
mô tả rõ ràng bằng các con số cụ thể với thời gian hoàn thành.
2.
Nhà quản lý cùng với nhân viên phát triển
kế hoạch hành động để các nhân viên theo đó mà bám sát mục tiêu của mình. Các mục
tiêu và kế hoạch hành động này cung cấp những chỉ dẫn mà qua đó các nhân viên
có thể đánh giá được hiệu quả của mình.
3.
Nhà quản lý phải định kỳ gặp gỡ nhân viên
của mình để đánh giá tiến độ của công việc của họ trong việc theo đuổi mục
tiêu.
Mô hình quản trị mục tiêu.
Một
lợi thế của mô hình quản trị mục tiêu (MBO) là các nhà quản lý có thể thấy việc
mô tả hiệu quả của nhân viên tiện lợi hơn việc đánh giá họ. MBO thực chất là một
chương trình tự đánh giá của người lao động. Trong bất kỳ tình huống nào,
nghiên cứu cũng chỉ ra rằng MBO thường có hiệu quả tốt đối với năng suất lao động
và thỏa mãn nghề nghiệp của nhân viên.
Tuy
nhiên, các nhà quản lý thường thiếu kinh nghiệm giao tiếp cần thiết để thực hiện
việc kiểm tra kết quả bằng phương pháp MBO và có thể không tạo sự khuyến khích.
Ngoài ra, việc coi vai trò của người quản lý như một người hỗ trợ, giúp đỡ có
thể mâu thuẫn với cung cách hàng ngày của người quản lý. Ở Việt Nam chưa có nhiều
doanh nghiệp áp dụng thành công mỹ mãn phương pháp quản trị theo mục tiêu MBO
này.
4.7 PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ BẰNG ĐỊNH LƯỢNG
Khái niệm:
là phương
pháp đánh giá mà trong đó người ta cố gắng định lượng các tiêu thức để đánh giá
và có sự phân biệt mức độ quan trọng cho các tiêu thức đánh giá.
Trình tự thực hiện như sau:
- Bước 1: Xác định
các yêu cầu chủ yếu để thực hiện công việc
- Bước 2: Phân loại từng yêu cầu theo các mức
đánh giá: xuất sắc, khá, trung bình, yếu và kém. Mỗi mức đánh giá này phải có
quy định rõ ràng.
- Bước 3: Đánh giá trọng số của từng yếu tố trong tổng các yếu
tố.
Ví dụ:
1.
Trước hết cần phải xác định được những nhóm yêu cầu chủ yếu
đối với năng lực thực hiện công việc của nhân viên trong từng loại công việc.
Ví
dụ: Đối với nhân viên bán hàng hóa có thể đặt ra các nhóm yêu cầu sau đây:
o
Kiến thức hiểu biết chung về hàng
hóa (K1)
o
Khả năng giao dịch với khách hàng
(K2 )
o
Khả năng giao dịch tính toán về tiền
bạc (K3 )
o
Khả năng phục vụ ( K4 )
o
Ngay thẳng và có lương tâm ( K5 )
o
Khả năng tổ chức sắp xếp quầy hàng (
K6 )
o
Khả năng ghi chép sổ sách ( K7 )
o
Khả năng mặc cả với khách hàng ( K8
)
o
Sức khỏe (K9 )
o
Ngoại hình ( K10 )
2.
Đánh giá tầm quan trọng của mỗi nhóm yêu cầu (Ký hiệu là R).
Đơn giản nhất là ta sử dụng nhiều chuyên gia cho điểm rồi lấy điểm trung bình.
Trong ví dụ trên ta có: Điểm 10 tối
đa
Các
nhóm yêu cầu thực hiện công việc |
|
|||||||||
K1 |
K2 |
K3 |
K4 |
K5 |
K6 |
K7 |
K8 |
K9 |
K10 |
|
1.
GK thứ 1 2.
GK thứ 2 3.
GK thứ 3 |
o 9 o 8 o 8 |
o 10 o 9 o 10 |
o 9 o 10 o 10 |
o 9 o 8 o 7 |
o 7 o 8 o 8 |
o 8 o 7 o 7 |
o 7 o 8 o 6 |
o 6 o 6 o 6 |
o 6 o 5 o 6 |
o 5 o 6 o 4 |
Trung bình (R) |
8,33 |
9,66 |
9,66 |
8 |
7,66 |
7,33 |
7 |
6 |
5,66 |
5 |
3.
Phân loại mức độ thỏa mãn các yêu cầu với năng lực thực hiện
công việc thực hiện của nhân viên.
Mỗi nhóm yêu cầu được chia làm 5 mức độ: Xuất sắc, Khá,
trung bình, yếu, kém.
Mức độ kém thể hiện nhân viên hoàn toàn không đáp ứng được
yêu cầu thực hiện công việc, có thể cho nghỉ việc, xứng đáng 1-2 điểm.
Mức độ xuất sắc thể hiện nhân viên hoàn toàn đáp ứng yêu cầu
cao nhất về mặt đó và xứng đáng cho điểm 9 – 10.
Ở mỗi mức độ nên có các minh họa cụ thể cho nhân viên hiểu
được thế nào là xuất sắc, khá, trung bình, yếu, kém.
Ri |
Xuất sắc (9 –10) |
Khá (7- 8) |
Trung bình (5-6) |
Yếu (3-4) |
Kém (1-2) |
|
Kiến thức hiểu biết chung về hàng hóa |
8,33 |
Biết được nguyên nhân khác biệt về
giá cả của các loại hàng tương tự về mẫu mã, chất lượng. Hiểu tính năng, tác
dụng và cách thức sử dụng các loại hàng |
Phân biệt được sự khác biệt giữa
các mặt hàng tương tự về mẫu mã, chất lượng một cách rõ ràng. |
Biết hướng dẫn cho khách hàng cách
sử dụng các loại hàng |
Biết cách sử dụng các loại hàng
trong quầy một cách thô thiển |
Không nắm được cách sử dụng của
nhiều loại hàng trong quầy. |
Khả năng giao dịch với khách hàng |
Biết được sự ưa thích của các nhóm
khách hàng khác nhau & biết cách hướng dẫn khách. Vui vẻ, cởi mở với
khách hàng, làm cho khách hàng thoải mái, tin tưởng. |
Mềm mỏng, vui vẻ với khách hàng,
biết cách kiềm chế bản thân, bình tĩnh đối với khách hàng khó tính , nóng nảy |
Ít niềm nở mời chào khách hàng |
Tỏ ra khó chịu công khai đối với
những khách hàng khó tính |
Thường xảy ra tranh cãi với khách
hàng nóng tính. Bị khách hàng nhiều lần phàn nàn. |
|
Khả năng tính toán về tiền bạc |
Tính toán, giao dịch nhanh, chính
xác. |
Tính toán giao dịch chính xác. |
Tính toán giao dịch chính xác,
nhưng tốc độ chậm |
Tính toán chậm ,đôi khi còn xảy ra
nhầm lẫn nhỏ |
Thường xảy ra nhầm lẫn mất mát |
|
Khả năng phục vụ |
Cân đong, đo đếm nhanh , chính
xác, bao hàng đẹp, nhanh |
Cân đong , đo đếm , bao hàng chính
xác, tốc độ bình thường |
Cân đong đo đếm bao hàng chính xác,
tốc độ chậm |
Cân đong, đo đếm chậm, lề mề. |
Hay nhầm lẫn, chậm chạp, để khách
hàng bỏ đi |
|
Ngay thẳng có lương tâm |
Có ý thức bảo vệ tài sản của cửa hàng
và khách hàng. Nhặt được của rơi quên trả lại cho khách hàng |
Tính toán , cân đong, đo đếm đầy
đủ, chính xác |
Đôi khi có sơ sót nhỏ trong việc
cân đo, đếm cho khách hàng |
Phát hiện ra sự nhầm lẫn của khách
hàng cố tình lờ đi |
Tính gian tiền của khách hàng và
cân đong không đầy đủ |
|
Khả năng tổ chức sắp xếp quầy hàng |
Bố trí gọn gàng, trật tự, dễ thấy,
và hấp dẫn khách hàng |
Bố trí gọn gàng dễ phục vụ |
Việc bố trí cho phục vụ nhưng
không ngăn nắp và không hấp dẫn khách hàng |
Bố trí tốn nhiều diện tích. Hàng
bày không đẹp mắt. |
Bố trí lộn xộn, chồng chéo, bỏ
quên mặt hàng |
|
Khả năng ghi chép sổ sách |
Ghi chép nhanh, rõ ràng đầy đủ và
chính xác. |
Ghi đầy đủ chính xác, rõ ràng |
Ghi đầy đủ chính xác nhưng mất
nhiều thời gian. |
Ghi chép lộn xộn, không rõ ràng ,
đôi khi bỏ sót |
Đánh mất sổ. Thường xảy ra nhầm
lẫn |
|
Khả năng mặc cả |
Có khả năng thuyết phục người mua
với giá có lợi nhất |
Biết thuyết phục khách hàng |
Tỏ ra khó chịu khi khách hàng năn
nỉ bớt giá |
Không có khả năng thuyết phục KH |
Thường mua bán hớ |
|
Sức khỏe |
Có khả năng làm việc với cường độ
cao, làm thêm giờ |
Bảo đảm đủ thời gian làm việc, có
thể làm thêm giờ |
Bảo đảm qui định thời gian làm
việc, không có khả năng làm việc căng |
Thường tỏ ra mệt mỏi về cuối ca,
ngày công đủ |
Thường nghỉ vì lý do sức khỏe.Luôn
mệt mỏi, lờ đờ trong công việc |
|
Ngoại hình |
Duyên dáng, thanh lịch có sức hấp
dẫn đối với khách hàng |
Đầu tóc trang phục lịch sự, được
khách hàng cảm tình |
Trang phục, đầu tóc gọn gàng |
Đôi khi chưa thật gọn gàng trong trang
phục, đầu tóc |
Mất vệ sinh, lôi thôi luộm thuộm |
4.
Đánh giá tổng hợp về hiệu quả thực
hiện công việc của nhân viên :
Một nhân viên có thể đáp ứng xuất sắc yêu cầu này, khá ở yêu
cầu khác. Đánh giá tổng hợp về năng lực thực hiện công việc của nhân viên sẽ
được tính theo công thức:
Trong đó: Ri - Số điểm chỉ tầm quan trọng của nhóm yêu cầu i
cần đánh giá
Gi - Là số điểm chỉ mức độ thỏa mãn nhóm yêu cầu i trong
thực hiện công việc của nhân viên: Xuất sắc 9- 10, Khá 7-8, Trung bình 5-6, Yếu
3-4, Kém 1-2.
Kết quả phân loại cuối cùng về hiệu quả thực hiện công việc
của nhân viên dựa theo nguyên tắc:
o Nếu nhân viên bị đánh giá kém ở bất cứ yêu cầu nào thì nhân
viên đó sẽ bị đánh giá chung là kém và có thể bị cho nghỉ việc.
o Đối với nhân viên khác căn cứ vào số điểm phân loại như sau:
§ Xuất sắc nếu :
G >8,5
§ Khá nếu :
6,5 < G < 8,5
§ Trung bình :
4,5 < G < 6,5
§ Yếu nếu :
G < 4,5
4.8
ĐÁNH GIÁ 360 ĐỘ (360 FEEDBACK)
Đánh giá 360 độ là phương pháp đánh giá nhân viên (thường ở
cấp quản lý và lãnh đạo) bằng cách thu thập dữ liệu về họ trong những tình
huống làm việc thực tế và về những phẩm chất hoạt động mà họ thể hiện thông qua
quá trình tổng hợp thông tin từ những người tiếp xúc với cá nhân được đánh giá
(giám đốc điều hành, quản lý, người đồng cấp, khách hàng hay đối tác…), nói
chung là bất cứ ai đáng tin cậy và biết rõ về công việc của cá nhân đó đều có
thể tham gia vào quá trình đánh giá này.
Việc tập
hợp thông tin từ những người có ảnh hưởng đến hoạt động chung của công ty làm
cho “phương pháp 360 độ” trở thành một công cụ đáng tin cậy.
Với tư cách một nhà quản lý trong công ty, bản
thân người được đánh giá cũng có thể được đề nghị tự cho điểm chính mình về lối
hành xử và những phẩm chất nghề nghiệp.
Những “bản tự kiểm” này về sau có thể được sử dụng
vào mục đích điều chỉnh hành vi hay thiết lập kế hoạch phát triển cho cá nhân
đó.
Về bản chất có thể xem đánh
giá 360 o chỉ là một hình thức đánh giá còn phương pháp thực hiện
đánh giá thì có thể dựa trên các phương pháp ở trên như: đánh giá bảng điểm hoặc
đánh giá bằng định lượng để thực hiện.
Đánh giá 360o đo lường những gì?
• Đánh
giá 360 độ hướng đến các kỹ năng như lắng nghe, lập kế hoạch,…
• Đánh giá 360 độ tập trung vào các lĩnh vực như làm
việc nhóm, tính cách, năng lực lãnh đạo.
• Đánh giá 360 độ đo lường hành vi và khung năng lực của
nhân viên.
Không
nên áp dụng đánh giá 360o trong
các trường hợp sau:
• Đánh
giá 360o không được dùng để đo lường những mục tiêu định
lượng như ngày nghỉ làm, chỉ số bán hàng,…
• Đánh giá 360o không được sử dụng để
trực tiếp đánh giá thành tích nhân viên.
• Đánh giá 360o không được dùng phục vụ
đánh giá chuyên môn.
4.9 PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ THEO CHỈ SỐ
ĐÁNH GIÁ THỰC HIỆN CÔNG VIỆC (KPI)
Khái niệm:
KPI - tiếng anh là Key
Performance Indicator là chỉ
số đánh giá hiệu quả công việc,
là công cụ đo lường, đánh giá hiệu quả công việc được thể hiện qua số liệu, tỉ
lệ, chỉ tiêu định lượng, nhằm phản ảnh hiệu quả hoạt động của các tổ chức hoặc
bộ phận chức năng của công ty/doanh nghiệp hay cá nhân. Mỗi bộ phận trong
công ty sẽ có các chỉ số KPI khác nhau để đánh giá hiệu quả làm việc một cách
khách quan của mỗi bộ phận đó.
KPI là cơ sở để nhà quản
lý đánh giá thành tích của phòng ban, của nhân viên và đưa ra những khuyến
khích phù hợp cho từng phòng ban, từng nhân viên.
Mục đích của việc sử dụng chỉ
số KPI trong đánh giá thực hiện công việc là nhằm đảm bảo cho người
lao động thực hiện đúng các trách nhiệm trong bảng mô tả công việc của từng vị
trí chức danh cụ thể, điều này góp phần cho việc đánh giá thực hiện công việc
trở nên minh bạch, rõ ràng, cụ thể, công bằng và hiệu quả hơn, nâng cao hiệu
quả của đánh giá thực hiện công việc bởi vì các chỉ số KPI mang tính định
lượng cao, có thể đo lường cụ thể.
KPI (Key Performance
Indicator) là các chỉ số đánh giá thực hiện công việc. KPI phản ánh được mục
tiêu của doanh nghiệp thông qua việc phân rã chỉ tiêu xuống từng bộ phận, từng
người lao động.
Vận dụng linh hoạt bộ
công cụ BSC – KPI, doanh nghiệp có thể tự tin xây dựng chiến lược phát triển
phù hợp với sứ mệnh, tầm nhìn, xây dựng được kế hoạch kinh doanh khả thi, đồng
thời ban hành được cùng lúc KPI Công ty, KPI Phòng/ban, KPI cá nhân…Tuy nhiên,
trên thực tế việc triển khai KPI là gặp không ít khó khă và rất tốn kém, có tới
70% doanh nghiệp thất bại trong việc xây dựng KPI, 20% doanh nghiệp thất bại
trong giai đoạn triển khai áp dụng các chỉ số đó, chỉ có 10% triển khai thành
công hệ thống đánh giá hiện đại và hiệu quả này.
Phân loại KPI:
Có rất nhiều KPIs khác nhau, nhưng có thể
phân thành 2 loại chính sau:
1.
KPIs được
gắn với các mục tiêu mang tính chiến lược: Các mục tiêu
mang tính chiến lược thì thường là tiền, profit, market share ==> tác động
trực tiếp đến sự sống còn của công ty.
Ví dụ: KPI
chiến lược là phải đạt doanh số 10 tỷ tháng và mỗi năm 120 tỷ, không đạt được
mục tiêu đó thì có khả năng công ty sẽ bị ảnh hưởng, nhà đầu tư rút vốn, giám
đốc Sales và Marketing bị cho thôi việc.
1.
KPIs được
gắn với các mục tiêu mang tính chiến thuật: Các chiến
thuật là những hoạt động nhỏ nhằm giúp công ty đến được gần hơn với việc đạt mục
tiêu chiến lược.
Ví dụ:
Social KPI là mỗi tháng cần phải đạt được 100,000 engagements, tuy nhiên, số
engagements này dù có đạt được cũng không đảm bảo sẽ giúp công ty đạt được
doanh số. Nhưng các KPI này là một chỉ số mang tính đo lường sự phát triển và
hiệu quả của các chiến thuật đang được thực thi và đồng thời bản thân các KPI
này phải link trực tiếp tới việc nó sẽ tác động tới việc đạt mục tiêu chiến
lược ra sao. Ví dụ: nhiều engagements ==> nhiều comments, nhiều inbox ==>
nhiều người tìm hiểu về dịch vụ ==> nhiều khả năng bán hàng hơn ==> tăng
doanh thu.
Cho nên các tầng cấp quản lý (directors, managers) là
người sẽ bị ép KPI chiến lược và các nhà quản trị này phải tạo ra các KPI chiến
thuật để phục vụ việc đạt mục tiêu KPI chiến lược mà họ đang chịu trách nhiệm.
Các KPI chiến lược này sẽ được áp cho các bạn cấp dưới đang thực thi các công
việc tương ứng.
Vì vậy, khi thấy các KPI chiến thuật đều
được đạt được nhưng các KPI chiến lược thì không điều này có thể đến từ một
số lý do sau:
- KPI chiến thuật hiện tại được thiết lập
không có đóng góp vào việc đạt được các KPI chiến lược. Ví dụ: đặt KPI là
chỉ số bounce rate (tỷ lệ thoát) của website, trong khi đó chỉ số này vốn
không nói lên được gì và cũng không gắn kết được nó với KPI chiến lược.
- KPI chiến thuật nếu đặt không đúng
đôi lúc không những không có đóng góp gì cho việc đạt được KPI chiến lược
mà thậm chí còn gây khó khăn cản trở. Ví dụ: đặt KPI là số like page quá
cao sẽ khiến các bạn social executive làm nhiều biện pháp để đạt được mục
tiêu đó như clickbait, câu like với nội dung không phù hợp nhằm tăng số lượng
like cho đủ chỉ tiêu. Nhưng những người like fanpage lại là những người
không có hứng thú với các nội dung khác của trang và do đó vô hình
chung làm giảm lượng tương tác và ảnh hưởng tới hoạt động social chung về
sau.
- KPI chiến thuật đặt ra mà đạt được hết
(mà còn vượt xa hạn mức) thì cái đó chưa chắc đã là tốt, mà có thể là bạn
đặt mục tiêu quá dễ dàng và đánh giá mục tiêu không chính xác và do đó
không đủ để giúp đạt được KPI chiến lược.
Còn nếu KPI chiến thuật đặt ra mà không đạt được và
kém quá xa thì có thể nhà quản trị đang đối đầu với các vấn đề sau:
- KPI chiến thuật được đặt ra quá tham vọng xa rời
thực tế nên không thể đạt được. KPI ngoài mục đích để đo lường hiệu quả nó
còn có thể hoạt động như một tác nhân có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực
đến tâm lý nhân viên của bạn. Bạn sẽ không muốn họ cảm thấy quanh năm suốt
tháng không đạt được chỉ tiêu và làm việc kém hiệu quả?
- Đội ngũ nhân viên của tổ chức/ hoặc phòng bán quá
yếu, không đủ khả năng đạt được KPI chiến thuật đặt ra. Lúc này nhà quản
trị cần coi lại cấu trúc tổ chức của mình, các công việc mà họ đang thực
hiện cũng như quy trình tuyển người từ đầu vào.
Vậy quan trọng nhất chính là KPI chiến
thuật được đặt ra cho người thực thi phải thực sự phù hợp, bám
sát và cân bằng với KPI chiến lược. Đảm bảo các KPI này
một khi hoàn thành và đạt được phải tác động một cách tích cực và giúp doanh
nghiệp, tổ chức đến gần hơn mục tiêu kinh doanh đề ra, phát triển cần bằng và bền
vững.
Hệ
thống bảng điểm cân bằng (Balance Scoredcard - BSC) là một hệ thống quản lý
chiến lược dựa vào kết quả đo lường và đánh giá, được áp dụng cho mọi tổ chức.
Nói một cách khác, BSC chính là phương pháp chuyển đổi từ tầm nhìn và chiến
lược thành mục tiêu, chỉ tiêu đánh giá và hoạt động cụ thể. Còn hệ thống đo
lường & đánh giá hiệu quả công việc (Key Performance Indicator - KPI) là
công cụ đo lường, đánh giá hiệu quả công việc được thể hiện qua số liệu, tỷ lệ,
chỉ tiêu định lượng, nhằm phản ảnh hiệu quả hoạt động của các tổ chức hoặc bộ
phận chức năng hay cá nhân.
Nếu
như BSC đánh giá sự hoàn thành của doanh nghiệp thông qua 4 chỉ tiêu (tài
chính, khách hàng, quá trình hoạt động nội bộ, hoạt động đào tạo, nghiên cứu
phát triển), giúp doanh nghiệp phát triển cân đối và bền vững thì KPI được áp
dụng cho nhiều mục đích: quản lý hệ thống công việc của một tổ chức, tự quản lý
công việc của nhóm, tự quản lý công việc của cá nhân.
Vì vậy, có thể nói BSC & KPI giúp kết nối giữa chiến lược lãnh đạo và chiến lược kinh doanh đây là 2 công cụ quản trị hiện đại giúp hiện thực hóa giấc mơ của lãnh đạo. Tại Việt Nam đã có rất nhiều doanh nghiệp triển khai mô hình quản trị này như Vinamilk, Giấy Sài Gòn, Ngân Hàng ACB, Tân Hiệp Phát, Searefico,… kết quả bước đầu khi áp dụng BSC và KPI tại các doanh nghiệp này cho thấy công cụ này phát huy tác dụng rõ rệt nhất ở các bộ phận " tiền sảnh" như tiếp thị, bán hàng, dịch vụ khách hàng... Nhờ có công cụ đánh giá hiệu quả công việc KPI mà động lực làm việc của nhân viên được cải thiện đáng kể và điều này được thể hiện qua ý thức, thái độ cũng như tinh thần làm việc nhóm.
Nhận xét
Đăng nhận xét