NỘI DUNG VÀ TRÌNH TỰ THỰC HIỆN ĐÁNH GIÁ
CHƯƠNG
3: NỘI DUNG VÀ TRÌNH TỰ THỰC HIỆN ĐÁNH GIÁ
Ngày
nay người ta có xu hướng chuyển việc đánh giá cuối cùng sang việc đánh giá quá
trình thực hiện công việc. Nghĩa là việc đánh giá được thực hiện ngay cả khi
các hoạt động công việc chuẩn bị diễn ra cho đến sau các hoạt động công việc kết
thúc.
Trước khi các hoạt động diễn ra:
-
Các mục tiêu cần đạt: thiết lập các mục
tiêu phải phù hợp với chiến lược của tổ chức gắn liền với những đặc điểm hiện tại
của tổ chức.
-
Các tiêu chí sử dụng để đánh giá sự thực
hiện: tức là cần thiết lập các tiêu chuẩn cho việc đánh giá.
-
Các tiêu chuẩn đánh giá phải liên quan đến
công việc và được hình thành từ phân tích công việc. Các tiêu chuẩn hay tiêu
chí nên cụ thể, cố gắng bằng các định lượng như: số lượng, chất lượng, thời
gian, kỹ năng, quan hệ …
-
Người lao động phải được cung cấp các tiêu
chuẩn đánh giá bằng văn bản trước khi được đánh giá. Điều này nhằm khẳng định
tính chính thức của quá trình đánh giá.
Trong khi hoạt động diễn ra
Thực hiện ghi nhận:
-
Những người tham gia đánh giá phải có khả
năng quan sát hành vi mà họ đánh giá.
-
Những người tham gia đánh giá phải được huấn
luyện để sử dụng mẫu đánh giá một cách chính xác.
Trong khi đánh giá
-
Phân tích những ghi nhận dưới ánh sáng của
các tiêu chí đã chọn.
Khi kết thúc đánh giá
-
Đưa ra những nhận định dựa vào những ghi
nhận: Kết quả đánh giá nên được thảo luận với người lao động và những phản hồi
cần có để giúp đỡ những người thực hiện kém hoàn thiện việc thực hiện nhiệm vụ
của mình.
Sau khi đánh giá
-
Xác định các mục tiêu và tiêu chí cho giai
đoạn sau.
Hệ thống đánh giá về cơ bản phải đảm bảo các yêu cầu sau đây:
Độ tin cậy:
· Hệ
thống đánh giá hiệu quả công việc phải đưa ra được việc xếp loại hiệu quả theo
thời gian và do những người đánh giá khác nhau. Nghĩa là theo thời gian những
người đánh giá khác nhau sẽ cho kết quả không quá khác biệt với một đối tượng cần
đánh giá. Điều này đòi hỏi một sự rõ ràng trong các tiêu thức, tiêu chí để đánh
giá.
Giá trị:
· Hệ
thống đánh giá nhân viên cần phải đánh giá chính xác hiệu quả làm việc của nhân
viên. Điều này đòi hỏi phải hạn chế đến mức tối thiểu những sai lầm trong đánh
giá nhân viên.
Tính nhạy:
· Hệ
thống đánh giá hiệu quả làm việc của nhân viên phải có khả năng phân biệt một
cách chính xác mức độ khác nhau của hiệu quả cá nhân của nhân viên (cho mục
đích hành chính) và cung cấp những thông tin đặc biệt về các cá nhân (cho mục
đích phát triển). Hay nói khác đi, hệ thống đánh giá cần có khả năng phân biệt
một cách rõ ràng những người làm việc tốt và những người làm việc chưa tốt.
Tính chấp nhận được và tính công bằng:
· Hệ
thống đánh giá nhân viên phải được giới quản lý chấp nhận sao cho họ cảm thấy
thuận lợi khi ra các quyết định dựa trên kết quả của việc đánh giá.
· Hệ
thống đánh giá nhân viên cũng phải chấp nhận được đối với các nhân viên, sao
cho họ chấp nhận quyết định của các nhà quản lý sử dụng kết quả đánh giá và sao
cho họ chấp nhận bất kỳ sự thay đổi nào về thái độ hoặc hành vi nghề nghiệp mà
các nhà quản lý đòi hỏi dựa trên kết quả đánh giá. Hệ thống đánh giá cần có sự ủng
hộ của người lao động nhờ vào họ sẵn sàng chấp nhận các tiêu chí đánh giá đó.
· Hệ
thống đánh giá nhân viên dễ chấp nhận hơn đối với các nhà quản lý và nhân viên
nếu họ nhận thấy hệ thống đó công bằng. Tính công bằng trong đánh giá luôn là mối
quan tâm của mọi nhân sự trong hệ thống của tổ chức.
· Trong
việc đánh giá sự công bằng, cả những nhà quản lý lẫn nhân viên đều tập trung
vào sự công bằng điều hòa (nghĩa là nhận thấy được sự công bằng của những quyết
định dựa vào kết quả đánh giá của việc đánh giá) và sự công bằng về mặt thủ tục
nghĩa là nhận thấy sự công bằng của những thủ tục được dùng để đi đến các quyết
định đó.
· Sự
nhận thức của các nhà quản lý và nhân viên về sự công bằng về mặt thủ tục của
quá trình đánh giá nhân viên sẽ được nhấn mạnh khi họ thấy rằng:
ü Những
nhân viên bị ảnh hưởng bởi kết quả/quyết định của quá trình đó có một vài đóng
góp vào chính quá trình đó. Nghĩa là họ cũng được tham gia xây dựng các tiêu
chí đánh giá bản thân họ.
ü Các
nhà quản lý sử dụng các số liệu chính xác để xác định mức độ hiệu quả làm việc
của nhân viên.
ü Các
nhà quản lý đánh giá mọi nhân viên theo cùng một cách thức.
ü Các
nhân viên có phương tiện để chống lại những quyết định đưa ra từ những thủ tục
mà họ cho là không công bằng.
Tính thực tế:
· Hệ
thống đánh giá nhân viên cần phải dễ sử dụng để các nhà quản lý sử dụng chúng.
Điều này đòi hỏi trên thực tế các phương tiện đánh giá phải đơn giản, dễ hiểu
và dễ sử dụng không chỉ đối với người quản lý mà ngay cả với người lao động.
Ảnh hưởng:
· Các
quyết định nhân sự cần dựa một cách chính xác vào điểm đánh giá, nếu không ý
nghĩa hay ảnh hưởng của việc tiến hành đánh giá hiệu quả làm việc của nhân viên
sẽ bị mất hoàn toàn.
Các sai lầm có thể mắc phải khi đánh giá nhân viên
Có nhiều sai lầm mà người đánh giá có thể mắc phải khi đánh giá nhân
viên, vì vậy chúng ta cần hiểu để có thể hạn chế đến mức tối đa những sai lầm
đó.
·
Tiêu chuẩn đánh
giá không rõ ràng:
Điều này dẫn đến hậu quả đánh giá không chính xác về nhân viên. Sự mơ hồ về các
tiêu thức đánh giá cũng như các quyết định có tính tùy tiện, ngẫu hứng của người
đánh giá có thể đưa đến sự không thống nhất giữa các thành viên trong Hội đồng
đánh giá, hoặc giữa Hội đồng và người bị đánh giá .
·
Hiệu ứng tương phản: Xu hướng đánh giá
một người nào đó bằng cách so sánh họ với những người khác hơn là so sánh với
yêu cầu nhiệm vụ và so với hiệu quả tuyệt đối của người đó. Điều này dẫn đến so
với một số người yếu kém, một người ở mức trung bình sẽ được nâng lên ở mức khá
giỏi.
·
Cảm tưởng ban đầu: Những ấn tượng từ
ban đầu mà người bị đánh giá tạo nên sẽ có thể ảnh hưởng đến tình cảm người
đánh giá và chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến kết quả đánh giá. Ấn tượng có thể là thuận
lợi và cũng có thể đem đến sự bất lợi cho người bị đánh giá. Và thông thường
người đánh giá luôn tìm kiếm những yếu tố để khẳng định những nhận định ban đầu
đó.
·
Hiệu ứng Halo (hay
còn gọi là hiệu ứng quầng): Từ một yếu tố duy nhất (hoặc chỉ vài yếu tố),
tốt hoặc xấu, người đánh giá có xu hướng phóng đại cho toàn bộ các yếu tố khác,
coi như một tổng thể. Chẳng hạn khi nhận thấy nhân viên có những thành tích tốt
trong thể thao thì nhà quản trị khi cảm tình sẽ đánh giá các yếu tố khác cũng
như vậy.
·
Lỗi thiên kiến: Lỗi do nhà quản
trị luôn cảm tình với người bị đánh giá nên chỉ thấy các ưu điểm của họ, mọi
nhược điểm đều được cho qua hoặc được coi là không đáng kể.
·
Lỗi định kiến: Lỗi này thường xảy
ra khi nhà lãnh đạo chịu ảnh hưởng những thành kiến không đúng nên cố gán những
thành kiến đó cho những người mà họ có đặc điểm tương tự. Ví dụ nhà lãnh đạo có
thể định kiến với nhân viên về sự khác biệt có tính cá nhân như tuổi tác, quê
quán, giới tính … Đôi khi, các cảm cá nhân làm cho lãnh đạo quy kết hiện tượng vào
bản chất. Ví dụ: ít nói cho là kiêu ngạo, thiếu hòa đồng; ăn mặc diện là lười
biếng … Lỗi thiên kiến hay định kiến như ông bà ta nói: “Thương ai thương cả đường
đi, ghét ai ghét cả tông ty họ hàng”.
·
Xu hướng trung
bình chủ nghĩa:
Xu hướng này cho rằng mọi nhân viên đều thuộc loại trung bình, không ai tốt
cũng không ai kém. Cách đánh giá này đại diện cho những người không muốn chấp
nhận rủi ro trong đánh giá. Họ ngại sử dụng những thái cực của thang điểm. Đây
cũng là cách đánh gía đơn giản và nhàn hạ nhất. Điều đó dẫn đến cách đánh giá
này không tạo ra sự phân biệt giữa các nhân viên và vì vậy không tạo được sự
khuyến khích động viên nhân viên.
·
Sự khoan dung: đây cũng là một dạng
sai lầm xảy ra khi người đánh giá có khuynh hướng đánh giá mọi nhân viên đều tốt.
Họ có khuynh hướng sử dụng mức đánh giá cao của thang điểm. Đánh giá quá cao
thường là những người đại diện cho tư tưởng “dĩ hòa vi quý” muốn cho mọi người
vui vẻ cả. Đó cũng là cách đánh giá của những người thích lấy lòng người khác
qua việc đánh giá một cách thật dễ dãi.
·
Xu hướng quá
nghiêm khắc:
Có những người khi đánh giá lại quá khắt khe, không bằng lòng với mọi ai. Họ
cho rằng mọi nhân viên đều dưới mức trung bình. Người giám khảo trong trường hợp
này thiên về việc sử dụng thái cực thấp của thang điểm. Quá nghiêm khắc hay quá
khoan dung đều được coi là sai lầm theo khuynh hướng cực đoan. Sai lầm này trái
ngược với loại sai lầm theo xu hướng trung bình chủ nghĩa. Tất nhiên, chúng ta
cần phải chú ý rằng tất cả nhân viên không phải là “tuyệt hảo” hay “bất tài”.
·
Giống với người
đánh giá:
Đây là một phần của lỗi thiên kiến. Người đánh giá có xu hướng cho điểm cao đối
với người giống ta. Ví dụ: cho điểm cao đối với những người cùng quê, cùng trường,
cùng yêu thích thể thao … Các sai lầm như vậy có thể bắt nguồn từ việc chúng ta
đi xa dần những tiêu chí đánh giá.
·
Sai lệch gần đây: Người đánh giá chỉ
chú trọng những hành vi, thái độ của người bị đánh giá trong khoảng thời gian gần
đây. Những thành công hay những thiếu sót trước đó thường được bỏ qua. Những
người có những đóng góp trước đây sẽ cảm thấy sự bất công đến với họ và chắc chắn
sự phản đối ở họ đối với hệ thống đánh giá hiệu quả.
Những sai lầm của đánh giá làm chúng ta khó phân biệt được đâu là người
tài đâu là người bất tài, giữa người tốt và người xấu và như vậy sẽ không đạt
được mục đích của đánh giá. Hệ thống đánh giá cố gắng đòi hỏi một sự khách quan
trong đánh giá; đem đến sự công bằng không phân biệt và sự ủng hộ của tổ chức
công đoàn cũng như toàn thể nhân viên.
Các nhà nghiên cứu chỉ ra những nguyên nhân của thất bại trong đánh giá
có thể là:
1.
Thiếu
thông tin.
2.
Các
tiêu chuẩn để lượng hóa không rõ ràng.
3.
Không
thực hiện việc đánh giá một cách cẩn thận.
4.
Không
được chuẩn bị cho việc thảo luận kết quả với người lao động.
5.
Không
khách quan trong quá trình đánh giá.
6.
Thiếu
kỹ năng đánh giá.
7.
Người
lao động không thường xuyên nhận được phản hồi.
8.
Thiếu
các nguồn lực cần thiết.
9.
Việc
thảo luận về phát triển nhân viên kém hiệu quả.
10.
Sử
dụng ngôn ngữ khó hiểu, rắc rối.
Quyết định chủ thể đánh giá
Trong hầu hết các công ty, bộ phận phòng nhân lực phải chịu trách nhiệm
thiết kế và kiểm tra các chương trình đánh giá nhân viên. Trách nhiệm tiến hành
trực tiếp tùy theo sự phân công ở mỗi công ty, nhưng hầu hết các cấp lãnh đạo
trực tiếp đều phải tham gia vào quá trình này.
Phòng nhân sự |
Các chủ thể đánh giá |
·
Thiết kế và duy trì hệ thống. ·
Thiết kế hệ thống báo cáo. ·
Bảo đảm các báo cáo đúng hạn. ·
Huấn luyện người đánh giá. |
·
Tiến hành đánh giá người lao động. ·
Thực hiện các báo cáo chính thức. |
Sau đây là những chủ thể trong đánh giá nhân viên:
1.
Cấp trên trực tiếp
đánh giá cấp dưới:
Đây là chủ thể đánh giá phổ biến nhất vì:
o Cấp trên trực tiếp
là người biết rõ việc hoàn thành công việc của cấp dưới.
o Cấp trên trực tiếp
phải có trách nhiệm quản lý đơn vị mình nên cần phải đánh giá nhân viên của
mình.
Hạn chế: Rất dễ mắc phải khuyết điểm không khách quan khi đánh giá.
Các lý do mà cấp trên muốn đánh giá cấp dưới:
o Để bảo đảm rằng tất
cả khả năng và năng lực cá nhân được sử dụng có hiệu quả.
o Để xác định nhu cầu
đào tạo, phát triển nghề nghiệp cá nhân cho nhân viên.
o Để trợ giúp cho
các quyết định đề bạt.
o Để xác định các kỹ
năng còn thiếu và xây dựng kế hoạch kế cận.
o Để duy trì cấp bậc
quyền lực bằng cách khẳng định sự lệ thuộc của các nhân viên dưới quyền vào những
người thực hiện quá trình đánh giá.
2.
Cấp dưới đánh giá
cấp trên:
Ở một số công ty người ta cho phép dạng đánh giá này, với lập luận như
sau:
o Cấp dưới ở vị trí
thuận lợi hơn để nhìn nhận, đánh giá khả năng của cấp trên.
o Khả năng nhìn nhận
đánh giá rộng hơn.
o Giúp cho cấp trên
ý thức đến các nhu cầu của cấp dưới.
Hạn chế: Cấp trên dễ có khuynh hướng xuề xòa, bình dân và dễ dãi với
cấp dưới để lấy lòng.
3.
Đồng nghiệp đánh
giá lẫn nhau:
o
Những
người ủng hộ dạng đánh giá này tin rằng việc này không đưa đến hậu quả tranh thủ
lẫn nhau.
o Kết quả chỉ có thể
tin cậy được nếu nhóm có công tác ổn định trong một thời gian dài và việc hoàn
thành công việc đòi hỏi sự tác động qua lại lẫn nhau.
o Tuy nhiên dạng
đánh giá này ít được chấp nhận, bởi vì có thể xảy ra tình trạng “bằng mặt mà
không bằng lòng”.
4.
Tập thể đánh giá
(đánh giá nhóm):
Tập thể hay nhiều cấp quản trị quen thuộc hay có quan hệ với sự hoàn
thành công việc của nhân viên đánh giá người đó.
Ưu điểm: Khách quan hơn.
Nhược điểm:
o Giảm vai trò của
lãnh đạo cấp trên
o Khó triệu tập cùng
một lúc nhiều cấp quản trị để đánh giá.
5.
Tự đánh giá:
Phương pháp này chỉ có hiệu quả khi mà trình độ giác ngộ, tính tự giác
của nhân viên ở trình độ cao và hệ thống tiêu chuẩn đánh giá rõ ràng.
6.
Khách hàng đánh
giá:
Các công việc liên quan trực tiếp đến các dịch vụ phục
vụ khách hàng thì chủ thể đánh giá là khách hàng luôn có ý nghĩa thiết thực cho
sự hoàn thiện và phát triển. Các thông tin từ khách hàng trong đánh giá nhân
viên sẽ giúp ích rất nhiều cho cả các nhà quản lý lẫn nhân viên trong việc điều
chỉnh các hành vi, thái độ để sự phục vụ hoàn hảo hơn. Ngày nay với quan điểm
“Khách hàng luôn luôn đúng” các công ty hết sức chú trọng đến dạng đánh giá này
cho dù không phải lúc nào khách hàng cũng có thể thực sự quan tâm đến vấn đề.
Điều quan trọng là cần phải thiết kế hệ thống tiêu chí đánh giá sao cho các
thông tin thu thập được là rõ ràng và hữu ích.
3.2 QUY TRÌNH THỰC HIỆN ĐÁNH GIÁ
Trình tự đánh giá nhân viên được áp dụng phổ biến hiện
nay
Nhận xét
Đăng nhận xét